Tình trạng kiệt sức đang ngày càng trở nên phổ biến, với hàng loạt yếu tố đẩy người lao động New Zealand đến giới hạn chịu đựng. Tuy nhiên, một chuyên gia cho rằng làn sóng này đang dần thay đổi khi thế hệ trẻ gia nhập thị trường lao động.
Số người New Zealand bị kiệt sức đã đạt mức kỷ lục, do sự kết hợp giữa bất ổn việc làm, khó khăn kinh tế và áp lực “luôn phải sẵn sàng làm việc” góp phần khiến tình hình tồi tệ hơn.
Và dù việc “cố gắng chịu đựng” có vẻ như là lựa chọn tốt nhất – thậm chí là duy nhất – để trở thành “nhân viên gương mẫu”, thì thực tế điều đó lại khiến năng suất làm việc giảm sút.
“[Kiệt sức] ảnh hưởng đến khả năng nhận thức của chúng ta, khiến chúng ta khó tập trung hơn, dễ mắc sai lầm hơn và đưa ra quyết định kém sáng suốt hơn,” bà Georgi Toma, giám đốc công ty Heart and Brain Works – đơn vị tư vấn giúp doanh nghiệp xây dựng môi trường làm việc lành mạnh hơn – cho biết.
Tình trạng kiệt sức được phân loại là “hiện tượng nghề nghiệp... bắt nguồn từ căng thẳng kéo dài tại nơi làm việc mà không được quản lý hiệu quả.”
Tuy nhiên, bà Toma nhấn mạnh rằng căng thẳng không phải lúc nào cũng là điều tiêu cực.
“Đó đơn giản là một phần tất yếu của cuộc sống,” bà nói.
“Phản ứng căng thẳng là một cơ chế sinh học tự nhiên... chúng ta cần một mức độ căng thẳng nhất định trong đời để cảm nhận được những cảm xúc tích cực như thành tựu.”
Bà Toma cho rằng căng thẳng có vai trò nhất định trong cuộc sống, nhưng vấn đề nảy sinh khi nó kéo dài hoặc không được kiểm soát đúng cách.
“Nếu một người thường xuyên chịu các yếu tố gây căng thẳng trong công việc – như khối lượng công việc cao liên tục, thiếu sự hỗ trợ từ cấp trên, không rõ vai trò, hoặc bị bắt nạt hay quấy rối – thì dù có tư duy tích cực đến đâu, việc tiếp xúc lâu dài với áp lực đó vẫn sẽ gây hậu quả tiêu cực,” bà nói.
Một trong những hậu quả đó chính là kiệt sức. Nghiên cứu mới nhất của Đại học Massey cho thấy hơn một nửa người lao động (57%) cho biết họ đang chịu đựng tình trạng kiệt sức nghiêm trọng.
Nhà tâm lý học Dougal Sutherland, chuyên gia chính tại Umbrella Wellbeing, cho rằng việc người ta cởi mở nói về vấn đề này là một tín hiệu tích cực.
“Nhưng ở khía cạnh khác, việc ngày càng có nhiều người cảm thấy kiệt sức tại nơi làm việc lại là điều đáng lo ngại,” ông nói.
Ông Sutherland cho rằng nguyên nhân đến từ tình hình kinh tế khó khăn, sự bất ổn việc làm và áp lực về năng suất.
“Mọi người thường phải làm việc chăm chỉ hơn, nỗ lực nhiều hơn nếu tổ chức mà họ đang làm việc gặp khó khăn... Họ thường làm thêm giờ để chứng minh giá trị của mình.”
Ông cũng nhận định rằng văn hóa ‘hustle’ (lao động cật lực, không ngừng nghỉ) là yếu tố góp phần khiến tình trạng kiệt sức gia tăng.
“Chúng ta luôn sẵn sàng, luôn trực tuyến, luôn cố gắng cân bằng nhiều việc cùng lúc – công việc chính, việc làm thêm. Nếu bạn là cha mẹ, bạn phải chăm sóc con cái, tham gia các hoạt động của chúng, cố gắng trở thành người bạn đời tốt, và cũng là đứa con hiếu thảo,” ông nói.
Ông Sutherland cho biết việc công nghệ phát triển đã làm gia tăng kỳ vọng rằng nhân viên phải luôn sẵn sàng làm việc ngoài giờ.
“Tôi còn nhớ, vào cuối những năm 1990, chúng ta nhận thư qua đường bưu điện, mỗi ngày chỉ có hai đợt phát, bạn mở phong bì, đọc thư, gõ phản hồi rồi gửi lại – cả quá trình đó thường mất vài ngày, đôi khi cả tuần.
“[Còn bây giờ] áp lực phản hồi ngay lập tức là rất lớn... nếu ai đó không trả lời email trong vòng 24 giờ, bạn sẽ bắt đầu tự hỏi họ có ở đó không, hay đang cố tình phớt lờ mình,” ông nói.
Tuy nhiên, ông Sutherland cho rằng thế hệ trẻ đang dần thay đổi tư duy khi bước vào thị trường lao động.
“Họ nói rằng: ‘Cuộc sống của tôi không chỉ có công việc. Tôi sẽ làm việc chăm chỉ trong giờ làm, nhưng tôi sẽ không làm thêm 15 giờ mỗi tuần như trước đây nữa – vì điều đó không thực tế, không bền vững, và không tốt cho sức khỏe tinh thần của tôi’.”
Theo rnz.co.nz - Hani Dang