Các đảng trong liên minh cầm quyền tại New Zealand đang kêu gọi phe đối lập không khôi phục lại lệnh cấm khai thác dầu khí ngoài khơi, với kỳ vọng đạt được đồng thuận chính trị để vực dậy ngành công nghiệp đang gặp khó – tuy nhiên, lời kêu gọi này có vẻ không được hồi đáp.
Dự luật bãi bỏ lệnh cấm được ban hành năm 2018 đã chính thức được Quốc hội thông qua vào tối thứ Năm, bất chấp việc Đảng Lao động, Đảng Xanh và Te Pāti Māori cam kết sẽ khôi phục lệnh cấm nếu giành lại quyền lực – một động thái có thể khiến các công ty dầu khí ngần ngại đầu tư vào việc thăm dò mỏ mới.
Việc bãi bỏ lệnh cấm là lời hứa trong chiến dịch tranh cử của cả Đảng Quốc gia và ACT, nhưng Shane Jones của New Zealand First là người dẫn dắt nỗ lực này.
Shane Jones đổi chiều: Từ người ban hành đến người bác bỏ
Shane Jones – người từng đứng cùng Jacinda Ardern vào năm 2018 để công bố lệnh cấm – nay gọi lệnh cấm là “sai lầm nghiêm trọng”.
“Lệnh cấm này đã làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu hụt nguồn cung khí đốt nội địa, khiến đầu tư vào thăm dò và phát triển bị sụp đổ – vốn là điều cần thiết để đáp ứng nhu cầu tương lai.”
Jones cũng chỉ trích các báo cáo chính thức cho rằng chi phí của lệnh cấm có thể lên đến 8 tỷ đô la, gọi những phân tích này là “yếu ớt”.
Năng lượng và an ninh: Lập luận từ chính phủ hiện tại
Simon Watts, Bộ trưởng Năng lượng và Biến đổi Khí hậu, thay mặt chính phủ phát biểu:
“Lập luận rằng việc dỡ bỏ lệnh cấm sẽ không mang lại khí đốt trong vòng 10 năm là sự đánh lạc hướng. Tín hiệu chính trị ngay lập tức là rất quan trọng – nó khuyến khích đầu tư dài hạn và tối ưu hóa khai thác từ các mỏ hiện có.”
Watts nhấn mạnh New Zealand vẫn cam kết với mục tiêu khí thải ròng bằng 0 vào năm 2050, nhưng khí tự nhiên vẫn rất quan trọng để đảm bảo an ninh năng lượng.
“Không có khí đốt, chúng ta sẽ phải dùng nhiều than hơn – phát thải gấp đôi CO₂ so với khí đốt – hoặc đối mặt với rủi ro mất an ninh năng lượng và giá điện tăng cao.”
Phe đối lập: Bằng chứng cho thấy lệnh cấm không ảnh hưởng đầu tư
Megan Woods – người phụ trách năng lượng trong Đảng Lao động – phản bác:
“Sau lệnh cấm năm 2018, đầu tư vào các mỏ hiện hữu vẫn đạt kỷ lục. Việc nói rằng lệnh cấm làm lạnh đầu tư là sai. Các công ty đã khai thác hết tiềm năng của mỏ hiện có – và không tìm được gì mới.”
Bà cũng chỉ trích đề xuất chính phủ chi 200 triệu đô la để khuyến khích thăm dò lại ngoài khơi đảo Nam, nơi trước đó đã được đánh giá là không có phát hiện thương mại khả thi.
Woods còn tiết lộ tài liệu chính phủ cho thấy việc bãi bỏ lệnh cấm có thể làm tăng 14,2 triệu tấn khí thải và đe dọa các thỏa thuận thương mại tự do hiện có, đặc biệt với EU và Anh.
Đảng Xanh và các tổ chức phản đối: "Không có dầu, chỉ có phản đối"
Steve Abel, phát ngôn viên Đảng Xanh về chuyển dịch công bằng, dẫn chứng rằng nhiều công ty dầu khí đã rút khỏi New Zealand trước cả khi lệnh cấm được ban hành: Exxon Mobil (2010), Petrobras (2012), Anadarko (2014), Statoil (2016), Shell (2018).
“Họ đã đến, đã thăm dò, không tìm thấy gì và chỉ gặp phải làn sóng phản đối mạnh mẽ từ người dân.”
Ông cũng kể lại hành động phản đối lịch sử năm 2011 của mình cùng Oil-Free Seas Flotilla, được 500 người từ iwi Te Whānau-a-Apanui đón bằng haka lớn nhất kể từ thời James Cook.
Doanh nghiệp và giới đầu tư: Thiếu ổn định chính trị cản trở vốn đổ vào
Echelon Resources (trước đây là New Zealand Oil and Gas) cảnh báo rằng những mỏ tốt đã được khai thác hết, còn các giếng mới sẽ tốn kém hơn và ít hấp dẫn hơn.
Giám đốc điều hành Andrew Jeffries cho biết sự thiếu nhất quán chính trị ở New Zealand khiến các nhà đầu tư nước ngoài lo ngại.
ACT: "Chấm dứt kỷ nguyên phá hoại năng lượng"
Simon Court, nghị sĩ ACT, cho biết:
“Hôm nay đánh dấu sự kết thúc của một kỷ nguyên – kỷ nguyên của sự phá hoại kinh tế và thiếu hiểu biết năng lượng từ chính phủ Lao động.”
Lãnh đạo ACT David Seymour thì cho rằng:
“Có thể sẽ không tìm thấy khí đốt, nhưng trở ngại không nên đến từ chính phủ của chúng ta. Nếu New Zealand First có thể thay đổi quan điểm, thì Lao động cũng nên làm được.”
Theo rnz.co.nz – Noo Thuyen