// //]]> Chất tạo ngọt tổng hợp erythritol và nguy cơ tiềm tàng đối với sức khỏe

Breaking

Chất tạo ngọt tổng hợp erythritol và nguy cơ tiềm tàng đối với sức khỏe

Mở đầu

Chất tạo ngọt tổng hợp được sử dụng rộng rãi trong dây chuyền sản xuất thực phẩm trong vài thập kỷ gần đây với mục đích giảm lượng đường và calorie tiêu thụ. Chất tạo ngọt tổng hợp càng được ưa chuộng khi tỷ lệ béo phì trên thế giới ngày càng gia tăng. Thậm chí chất tạo ngọt tổng hợp còn được tìm thấy trong nước lấy từ vòi. Mặc dù chất tạo ngọt tổng hợp thường được các cơ quan đăng ký cân nhắc là an toàn đối với sức khỏe (chẳng hạn như Cục Kiểm soát Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ - FDA và Liên minh Châu Âu), nhưng những tác động lâu dài đối với sức khỏe của chất tạo ngọt tổng hợp vẫn chưa được làm rõ.


Bệnh nhân mắc bệnh chuyển hóa (chẳng hạn như đái tháo đường type 2 và béo phì) thường được khuyến nghị nên sử dụng chất tạo ngọt tổng hợp thay thế cho đường để cải thiện kết quả kiểm soát đường huyết và giảm cân. Tuy nhiên, dữ liệu dịch tễ cho thấy có mối liên hệ giữa việc tiêu thụ chất tạo ngọt tổng hợp và những kết cục bất lợi trên tim mạch – chuyển hóa, chẳng hạn như tăng cân, kháng insulin, đái tháo đường type 2 và bệnh tim mạch, bao gồm cả những biến chứng huyết khối xơ vữa và tử vong do tim mạch.

Cho đến nay, vẫn chưa có thử nghiệm lâm sàng phân nhóm ngẫu nhiên nào đánh giá tính an toàn về lâu dài của chất tạo ngọt tổng hợp mặc dù chất tạo ngọt tổng hợp ngày càng được áp dụng nhiều trong các dây chuyền sản xuất thực phẩm.

Giới thiệu về erythritol

Erythritol là hợp chất hóa học thuộc nhóm alcohol (cụ thể là polyol) có 4 carbon. Erythritol được sử dụng rộng rãi như một chất thay thế đường. Erythritol tồn tại tự nhiên với hàm lượng thấp trong hoa quả và rau củ, nhưng trong các dây chuyền sản xuất, erythritol thường được bổ sung vào thực phẩm với hàm lượng cao gấp 1000 lần sao với hàm lượng erythritol nội sinh do cường độ ngọt thấp hơn so với sucrose. Lượng erythritol nạp vào hàng ngày tổng cộng ở Hoa Kỳ được ước tính lên tới 30g/ngày ở một số nhóm dân số theo khảo sát của Bộ Y tế và Dinh dưỡng Quốc gia.


Sau khi được tiêu hóa, erythritol ít được chuyển hóa mà được thải trừ trong nước tiểu. Do vậy, erythritol được cân nhắc như là chất tạo ngọt “zero – calorie”, không có giá trị dinh dưỡng và chất tạo ngọt tự nhiên. Những đặc điểm này chính là lý do khiến erythritol được sử dụng ngày càng rộng rãi và việc ứng dụng erythritol được dự kiến còn tăng gấp đối trong 5 năm tới.

Một vài nghiên cứu trước đây cho rằng erythritol đem lại một số lợi ích, bao gồm cải thiện chức năng nội mạc sau 4 tuần thiêu thụ thức uống có chứa erythritol ở bệnh nhân đái tháo đường. Tuy nhiên, một nghiên cứu tiến cứu với cỡ mẫu nhỏ lại cho thấy erythritol làm tăng cân. Trong một nghiên cứu khác, erythritol liên quan đến việc khởi phát đái đáo thường type 2.

Tương tự các hơp chất polyol khác, việc chiết tách erythritol ra khởi các đồng phân isomer là thực sự khó khăn, gây cản trở cho việc phân tích và định lượng. Mối quan hệ giữa erythritol và các biến chứng tim mạch, huyết khối xơ vữa vẫn chưa được đánh giá và báo cáo.

Erythritol và chuyển hóa và các biến cố tim mạch chính

Một nghiên cứu untargeted metabolomics đã được tiến hành với 1157 bệnh nhân. Trong số những hợp chất đã được xác định có liên quan đến biến cố tim mạch chính trong huyết tương của bệnh nhân, nhiều hợp chất polyol cũng đã được xác định, bao gồm những hợp chất tạo ngọt tổng hợp thường có mặt trong thực phẩm. Trong số những chất tạo ngọt tổng hợp này, erythritol là hợp chất có liên quan đến biến cố tim mạch chính nhiều nhất.

Khi phân tích mẫu huyết tương của bệnh nhân có yếu tố nguy cơ tim mạch cao (bao gồm bệnh nhân đái tháo đường type 2 và béo phì), nồng độ erythritol cao hơn ở những bệnh nhân có biến cố tim mạch chính trong 3 năm theo dõi. Hơn nữa, nguy cơ xảy ra biến cố tim mạch cao hơn xảy ra với nồng độ erythritol trong huyết tương cao hơn. Mối liên hệ giữa nồng độ erythritol và nguy cơ biến cố tim mạch chính không có sự khác biệt khi so sánh giữa nữ giới và nam giới. Khi phân tích mô hình Cox tuyến tính, erythritol có liên quan đến biến cố tim mạch chính một cách độc lập, cụ thể cứ mỗi 1 µM tăng của nồng độ erythritol, thì nguy cơ biến cố tim mạch chính có điều chỉnh tăng lên từ 16 – 21%.

Erythritol và đáp ứng của tiểu cầu

Erythritol có liên quan đến việc làm tăng sự kết tập tiểu cầu ở những mẫu huyết tương giàu tiểu cầu của người. Hiện tượng này không xảy ra ở những polyol khác như glucose hay 1,5-anhydroglucitol. Một cách tình cờ, 1,5-anhydrogluciol được phát hiện có mối tương quan nghịch với biến cố tim mạch trong các nghiên cứu untargeted metabolomics.

Một thử nghiệm khác về tác động của erythritol với sự kết dính của tiểu cầu cũng đã được tiến hành. Erythritol cho thấy khả năng làm tăng có ý nghĩa tốc độ kết dính tiểu cầu phụ thuộc collagen và tốc độ hình thành huyết khối.

Nồng độ erythritol sau bữa ăn ở người khỏe mạnh

Vì có nhiều thức ăn và đồ uống được bổ sung erythritol, do vậy, một người bình thường có thể sẽ tiêu thụ rất nhiều erythritol một cách không chủ đích. Khi đo lường nồng độ erythritol trong máu của những người khỏe mạnh sau khi uống nước ngọt chứa erythritol (30 g), kết quả cho thấy nồng độ erythritol trong huyết tương ban đầu nằm ở mức thấp (trung vị 3.84 µM), tuy nhiên, chỉ vài giờ sau đó, nồng độ erythritol tăng lên gấp 1000 lần và luôn duy trì ở mức cao trong hơn 2 ngày. Đáng lưu ý là nồng độ erythritol được quan sát luôn vượt ngưỡng nồng độ của erythritol có thể làm tăng có ý nghĩa một số chức năng của tiểu cầu.

Kết luận

Như vậy, erythritol có liên quan đến việc làm tăng nguy cơ xảy ra các biến cố tim mạch một cách độc lập với các yếu tố nguy cơ tim mạch truyền thống. Không những vậy, erythritol còn liên quan đến việc làm tăng đáp ứng kết tập của tiểu cầu.

Nguồn Docquity

Previous Post
Previous Post Next Post

Du lịch

Rao vặt New Zealand

Thông tin Rao Vặt Người Việt tại New Zealand.

Tạo tài khoản ngay