Trong nhiều thế kỷ, người Māori xây dựng những ngôi nhà ấm áp, khô ráo, bền vững và đặt whānau (gia đình, cộng đồng) làm trung tâm. Tình trạng vô gia cư, nhà ẩm thấp hay quá tải cư trú không tồn tại trong te ao Māori (thế giới quan Māori).
Bộ luật xây dựng đầu tiên của New Zealand cấm xây nhà raupō ở các thành phố. Ảnh: Thư viện Alexander Turnbull, Bộ sưu tập của bà Scott.Hai nhà nghiên cứu cho rằng các hệ thống từng khiến người Māori bị tách khỏi kāinga (làng, nơi ở truyền thống) vẫn tiếp tục tạo ra bất bình đẳng nhà ở cho đến ngày nay. Theo họ, giải pháp nằm ở việc khôi phục quyền tự chủ của Māori trong cách xây dựng cộng đồng.
Khôi phục góc nhìn lịch sử về kiến trúc Māori
Giáo sư Deidre Brown (Ngāpuhi, Ngāti Kahu) – chuyên gia nghiên cứu kiến trúc Māori hơn 20 năm, hiện làm việc tại Trường Kiến trúc và Quy hoạch Te Pare, Đại học Auckland và là đồng giám đốc MĀPIHI – cho biết nhóm các học giả Māori đã thống nhất rằng nhà ở là vấn đề quan trọng nhất có thể tạo ra tác động tích cực.
Họ đã phỏng vấn 30–40 bên liên quan, gồm Kāinga Ora, Bộ Nhà ở và Phát triển Đô thị, các tổ chức nhà ở Māori, marae, iwi, nhóm cộng đồng và các kiến trúc sư. Từ đó, 130 yếu tố liên quan đến kết quả nhà ở được xác định, trong đó có vấn đề khả năng chi trả.
Trung tâm MĀPIHI ra đời với mục tiêu nâng cao chất lượng và nguồn cung nhà ở cho người Māori và Thái Bình Dương.
Đồng hành cùng bà là Savannah Brown (Ngāti Whātua, Ngāti Hine, Ngāti Wai, Ngāpuhi), nhà thiết kế kiến trúc và nghiên cứu sinh Tiến sĩ năm thứ tư, chuyên nghiên cứu ảnh hưởng của luật xây dựng thời thuộc địa lên whare Māori – đặc biệt tại vùng Ngāti Whātua.
Brown cho biết hệ thống xây dựng truyền thống và chính sách hiện nay “gắn kết với nhau rõ ràng hơn nhiều người nghĩ”.
Từ tự chủ đến bị ràng buộc
Trước thời thuộc địa, kāinga của người Māori tự chủ, bền vững và được tổ chức theo cấp độ hapū.
Giáo sư Brown nói: “Chúng tôi manaaki – chăm sóc con người. Khái niệm một người vô gia cư hay không có whānau hoàn toàn trái với tikanga của chúng tôi.”
Người Māori luôn có vùng đất riêng để lấy nguyên liệu như raupō, nikau, gỗ… cùng kiến thức khai thác bền vững – điều ngày nay gọi là kinh tế tuần hoàn.
Whare Māori được xây dựng dựa trên nhu cầu: hapū lớn hơn, một em bé mới sinh, hoặc một whānau mới hình thành. Những nhận định cho rằng nhà Māori lạnh, bẩn hay kém an toàn xuất phát từ các tài liệu thuộc địa mang định kiến.
Brown nhấn mạnh: “Kiến trúc của chúng tôi đã phát triển qua hàng thế kỷ, và các đạo luật thời hậu tiếp xúc đã phá vỡ sự phát triển đó.”
Nhà thiết kế kiến trúc và học giả mới Savannah Brown đang ở năm thứ tư hoàn thành chương trình tiến sĩ. Ảnh: RNZ / Layla Bailey-McDowellMốc 1842: Luật làm suy tàn kiến trúc truyền thống
Một trong những sự can thiệp sớm nhất là Sắc lệnh Nhà Raupō năm 1842, được ban hành chỉ hai năm sau khi ký Te Tiriti o Waitangi. Luật áp đặt thuế 20 bảng mỗi năm đối với các nhà raupō hiện hữu và phạt 100 bảng nếu xây nhà mới bằng raupō.
Dù được giới thiệu với lý do an toàn phòng cháy, Brown nghi ngờ: chính phủ lo ngại thợ xây Māori cạnh tranh với thợ mộc Anh mới đến, vì họ có thể xây nhà nhanh và rẻ bằng raupō.
Brown kể lại cảm xúc khi đọc bản gốc tại Lưu trữ Quốc gia: “Đây chính là điểm khởi đầu cho sự suy tàn của kiến trúc Māori truyền thống.”
Hệ quả lan rộng nhanh chóng: vật liệu truyền thống bị hạn chế, hapū mất quyền tiếp cận đất ngập nước và rừng, rangatahi rời kāinga, mang theo cả lao động và tri thức.
Sang thế kỷ 20, tỷ lệ sở hữu nhà của Māori giảm mạnh. Họ dần rơi xuống “đáy hệ thống nhà ở”, phải sống trong những căn nhà chất lượng thấp ở thành thị. Nhà ở nhà nước giúp đỡ một phần, nhưng thiết kế dựa trên mô hình gia đình hạt nhân châu Âu, không phù hợp với whānau đông người.
Một số yếu tố thiết kế thậm chí đi ngược tikanga: nhà đặt sát mặt đường, phòng tắm cạnh bếp, các hành lang cản trở không gian sinh hoạt chung, ca hát và kể chuyện. Māori cũng bị loại khỏi chương trình hỗ trợ vay mua nhà suốt nhiều thập kỷ, cho đến năm 1959.
Theo điều tra dân số 2023, tỷ lệ sở hữu nhà của Māori chỉ còn 27,5%, và báo cáo tháng 6/2025 của Bộ Nhà ở xác nhận hơn 60% người vô gia cư là Māori.
“ Khi các đạo luật khiến chúng tôi không thể tự xây nhà, quyền tự chủ cũng mất theo,” Brown nói.
Một người mẹ và đứa trẻ ngồi bên ngoài một ngôi nhà raupō ở Taranaki. Ảnh: Cá voi Raupō, Taranaki. Album Parihaka 1. Tham khảo: PA1-q-183-25-2. Thư viện Alexander Turnbull, Wellington, New ZealandKhôi phục quyền tự chủ trong xây dựng
Các giải pháp do Māori dẫn dắt đang chứng minh hiệu quả. Nhiều papakāinga như tại Te Māhurehure Marae (Pt Chevalier, Auckland) hay Ngāti Toa đang kết hợp nhà ở với đời sống marae, môi trường tự nhiên và thực hành văn hóa.
Savannah Brown cho biết mô hình này “giống hệt tổ tiên thế kỷ 19, nhưng áp dụng công nghệ hiện đại”. Tại đây có kura kaupapa, vườn thực phẩm cộng đồng (māra kai) và chuỗi cung ứng tự chủ.
Tuy nhiên, nhiều hapū nhỏ gặp khó khăn khi rangatahi rời đi. Brown cho rằng hệ thống hiện tại vẫn cần cải cách – chẳng hạn thành lập cơ quan xây dựng Māori để giảm vướng mắc, nhất là các vấn đề liên quan đến tikanga và whenua Māori.
Cả hai nhà nghiên cứu hy vọng sẽ có nhiều người Māori tham gia lĩnh vực kiến trúc hơn.
“Housing nằm ở trung tâm của wellbeing,” Giáo sư Brown nói. “Càng nhiều người Māori trong ngành, cộng đồng càng được lợi.”
Theo rnz.co.nz – Khoa Tran
