Ngày càng nhiều học sinh trung học lựa chọn các môn kỹ năng sống và phát triển cá nhân, trong khi tỷ lệ theo học các môn học cốt lõi như khoa học và tiếng Anh có xu hướng giảm nhẹ.
Tiếng Anh vẫn là môn học được nhiều học sinh theo học nhất, nhưng tỷ lệ này đã giảm từ 87% xuống còn 80%. Ảnh: UnsplashTheo số liệu của Bộ Giáo dục, cứ 5 học sinh trung học thì có 1 em theo học các môn kỹ năng sống/phát triển cá nhân trong năm 2025. Lĩnh vực này đã tăng trưởng nhanh chóng trong 15 năm qua, phản ánh nhu cầu ngày càng cao về các kỹ năng thực tiễn phục vụ cuộc sống và định hướng nghề nghiệp.
Kỹ năng sống tăng mạnh, môn cốt lõi giảm nhẹ
Tỷ lệ học sinh trung học theo học kỹ năng sống/phát triển cá nhân tăng từ 8% năm 2010 lên 21% năm 2025, tương đương gần 68.000 học sinh, trong đó 40% là học sinh lớp 9. Theo RNZ, đây là nhóm môn học bao gồm nhiều khóa khác nhau, tập trung vào kỹ năng cá nhân, xã hội và định hướng tương lai.
Các môn kỹ năng học tập (study skills) cũng tăng đáng kể, từ 5% lên 13%, với hơn 41.000 học sinh, trong đó một nửa là học sinh lớp 13.
Tiếng Anh vẫn là môn được học nhiều nhất, với 80% học sinh trung học theo học năm 2025, nhưng đã giảm so với 87% năm 2010.
Toán học đứng thứ hai với 67% học sinh, giảm từ 78%, dù số học sinh theo học toán thống kê và toán giải tích lại tăng lần lượt từ 6% lên 10% và từ 3% lên 6%.
Khoa học giảm nhẹ, một số môn chuyên sâu giữ ổn định
Khoa học được 52% học sinh theo học, giảm từ 58% năm 2010. Tuy nhiên, tỷ lệ học sinh học sinh học (11%) và hóa học (9%) giữ nguyên, trong khi vật lý tăng từ 9% lên 10%.
Đáng chú ý, khoa học Trái đất/thiên văn học tăng từ chỉ vài trăm học sinh lên gần 1% tổng số.
Thay đổi trong các môn xã hội, thương mại và nghệ thuật
Khoa học xã hội giảm từ 39% xuống 35%. Địa lý giảm mạnh từ 11% xuống 7%, trong khi lịch sử tăng nhẹ từ 10% lên 11%.
Các môn liên quan đến thương mại tăng rõ rệt, từ 5% lên 12% học sinh.
Giáo dục sức khỏe và thể chất tăng từ 16% lên 23%, dù môn sức khỏe giảm nhẹ từ 15% xuống 14%, và giáo dục thể chất giảm mạnh từ 44% xuống 32%.
Tỷ lệ học sinh học te reo Māori tăng từ 8% lên 12%.
Ở nhóm nghệ thuật, mỹ thuật giảm từ 18% xuống 12%, kịch nghệ từ 12% xuống 7%, và âm nhạc từ 15% xuống 10%, trong khi múa tăng nhẹ từ 3% lên 4%.
Công nghệ và kinh tế gia đình: xu hướng trái chiều
Trong nhóm công nghệ, môn công nghệ tổng hợp giảm từ 14% xuống 8%. Ngược lại, công nghệ thực phẩm tăng từ 12% lên 14%, đồ họa giảm mạnh từ 12% xuống 3%, còn công nghệ vật liệu tăng nhẹ từ 10% lên 11%.
Môn kinh tế gia đình giảm từ 5% xuống 4%.
Lựa chọn môn học ở bậc học sinh lớp 12
Bức tranh khác xuất hiện khi xem xét riêng lựa chọn môn học của học sinh lớp 12, giai đoạn có ít môn bắt buộc hơn và mang tính định hướng đại học, nghề nghiệp.
Tiếng Anh vẫn phổ biến với 80% học sinh lớp 12, nhưng giảm mạnh so với 93% năm 2010.
Ba môn toán học chiếm tỷ lệ lớn: 46% học toán, 20% toán thống kê và 10% toán giải tích.
Khoảng một phần ba học sinh lớp 12 theo học ít nhất một môn khoa học: 31% sinh học, 27% vật lý và 25% hóa học.
Giáo dục thể chất thu hút 20% học sinh lớp 12, trong khi giáo dục ngoài trời đạt 9%.
Các môn thương mại chiếm 13% học sinh lớp 12, gấp đôi năm 2010; 10% học kinh tế.
Lịch sử thu hút 14%, tôn giáo học 12%, và địa lý 10% – tương đối ổn định so với năm 2010.
Ngoài ra, 9% học sinh lớp 12 theo học kỹ năng học tập, 11% học chuyển tiếp/tiền nghề nghiệp, và 13% chọn kỹ năng sống/phát triển cá nhân.
Trong nhóm công nghệ, công nghệ thực phẩm được 12% học sinh lớp 12 lựa chọn và công nghệ vật liệu đạt 10%.
Theo rnz.co.nz – Khoa Tran